Những kết quả chủ yếu trong đổi mới công tác cán bộ
Cán bộ và công tác cán bộ là một trong những lĩnh vực công tác trọng yếu của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Đảng ta khẳng định: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Chính vì vậy, Đảng ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho công tác cán bộ và hoàn thiện chính sách cán bộ. Chỉ tính riêng nhiệm kỳ Đại hội XI và XII, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản rất quan trọng, có ý nghĩa đột phá, như: Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17-4-2015, của Bộ Chính trị, về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Kết luận số 24-KL/TW, ngày 15-12-2017, của Bộ Chính trị, về nguyên tắc điều động, phân công, bố trí công tác đối với cán bộ Trung ương luân chuyển; Thông báo kết luận số 43-TB/TW, ngày 28-12-2017, của Bộ Chính trị, về kết quả kiểm tra việc thực hiện công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý; Quy định số 105-QĐ/TW, ngày 19-12-2017, của Ban Chấp hành Trung ương, về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; Quy định số 109-QĐ/TW, ngày 3-1-2018, của Ban Bí thư, về công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Kế hoạch số 10-KH/TW, ngày 6-6-2018, của Bộ Chính trị, về thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW; Kết luận số 48-KL/TW, ngày 26-4-2019, của Ban Bí thư, về kết quả tự kiểm tra, rà soát thực hiện công tác cán bộ; Kết luận số 55-KL/TW, ngày 15-8-2019, của Ban Bí thư, về việc tiếp tục chấn chỉnh công tác cán bộ để chuẩn bị tốt nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng; Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền; Quy định số 214-QĐ/TW, ngày 2-1-2020, của Bộ Chính trị, về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Kết luận số 71-KL/TW, ngày 24-3-2020, của Ban Bí thư, về xử lý sai phạm trong công tác tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức theo Thông báo Kết luận số 43-TB/TW, ngày 28-12-2017, của Bộ Chính trị...
Tinh thần và nội dung đổi mới nổi bật, xuyên suốt các văn bản quan trọng nêu trên là sự thống nhất, chặt chẽ về lý luận và sát hợp với thực tiễn; quán xuyến tất cả các khâu của công tác cán bộ, như: Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, điều động cán bộ; bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ; đồng thời, từng bước bảo đảm thống nhất, liên thông giữa các quy định của Đảng với pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy có hiệu quả cao nhất phẩm chất, uy tín, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ và yêu cầu đổi mới về tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trong tình hình mới. Một điểm nhấn rất quan trọng là Đảng ta đã xác định đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho sự phát triển lâu dài, bền vững. Đây là kết quả rất quan trọng của quá trình tổng kết thực tiễn và sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về công tác cán bộ qua gần 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới.
Có thể khẳng định, việc đổi mới công tác cán bộ thời gian qua luôn bám sát nhiệm vụ chính trị và yêu cầu của Đảng về chính sách cán bộ trong thời kỳ mới. Nhờ có chính sách phù hợp và đúng đắn, công tác cán bộ đã đạt được những kết quả tích cực, quan trọng, khắc phục được những hạn chế, bất cập và từng bước đi vào nền nếp, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, chặt chẽ hơn. Chất lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Năm nội dung trong chính sách cán bộ, bao gồm: Đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; luân chuyển cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và bố trí, sắp xếp, sử dụng cán bộ được quan tâm xây dựng từ nội dung đến tổ chức thực hiện và thanh tra, kiểm tra, bảo đảm tính đồng bộ, toàn diện.
Thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức - những kết quả quan trọng bước đầu
Thứ nhất, đối với việc thực hiện tinh giản biên chế, Bộ Nội vụ đã phối hợp với các cơ quan hữu quan nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành các văn bản sửa đổi, bổ sung quy định về chính sách tinh giản biên chế và các chính sách liên quan, như Nghị định số 108/2014/NĐ-CP, ngày 20-11-2014, về chính sách tinh giản biên chế và Nghị định số 113/2018/NĐ-CP, ngày 24-10-2018, về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP, để mở rộng phạm vi đối tượng thực hiện tinh giản biên chế; đẩy mạnh phân cấp cho các bộ, ngành và địa phương trong việc thực hiện chính sách tinh giản biên chế; thực hiện mạnh mẽ việc cắt giảm thủ tục hành chính để giảm số lượng biên chế không thực sự cần thiết. Bộ Nội vụ đã phối hợp với các cơ quan hữu quan để thống nhất thực hiện việc giao biên chế công chức hành chính gắn với việc tiết giảm kinh phí chi ngân sách cho các bộ, ngành và địa phương; gắn việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo hướng thu gọn đầu mối với việc thực hiện chính sách tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Tính đến ngày 31-12-2019, số người làm việc hưởng lương và phụ cấp từ ngân sách nhà nước là 3.088.013 người, giảm 541.890 người (chiếm 14,93%) so với số được giao trước ngày 30-4-2015. Trong đó, cán bộ, công chức từ cấp huyện trở lên giảm 37.939 người (chiếm 10,26%); viên chức giảm 209.544 người (chiếm 11,10%); hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP, giảm 6.752 người (chiếm 5,66%); các loại hợp đồng khác giảm 18.734 người (chiếm 14,44%); cán bộ, công chức cấp xã giảm 5.481 người (chiếm 2,31%); người hoạt động chuyên trách ở cấp xã và thôn, tổ dân phố giảm 263.440 (chiếm 29,75%), trong đó cấp xã giảm 41.089 người và thôn, tổ dân phố giảm 222.351 người. Kết quả tinh giản biên chế tính theo các khối: Khối Quốc hội giảm 174 người (chiếm 0,47%); khối Chính phủ giảm 28.815 người (chiếm 10,94%); khối chính quyền địa phương (cấp tỉnh, cấp huyện) giảm 234.358 người (chiếm 11,09%); cấp xã giảm 268.921 người (chiếm 23,94%); Văn phòng Chủ tịch nước giảm 15 người (chiếm 15%).
Thứ hai, thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17-4-2015, của Bộ Chính trị, về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và các văn bản liên quan, chúng ta đã thể chế hóa chủ trương của Đảng bằng nhiều giải pháp quyết liệt và đồng bộ:
Một là, sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức để thể chế hóa chủ trương “không thực hiện chế độ công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập (trừ các đơn vị phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ quản lý nhà nước)” và “tách người quản lý doanh nghiệp nhà nước khỏi chế độ viên chức, công chức”.
Hai là, sửa đổi quy định về chính sách đối với người có tài năng trong hoạt động công vụ. Trên cơ sở quy định khung của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương sẽ quy định chi tiết để có đội ngũ và cơ cấu phù hợp.
Ba là, xây dựng các quy định về xếp lương, trả lương đối với cán bộ, công chức, viên chức theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 21-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.
Bốn là, sửa đổi, bổ sung quy định về xếp loại đánh giá cán bộ, công chức để thể chế hóa Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Quy định số 89-QĐ/TW, ngày 4-8-2017, của Bộ Chính trị, về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Năm là, sửa đổi, bổ sung quy định về phương thức tuyển dụng công chức, tiếp nhận công chức để tạo cơ chế liên thông trong công tác cán bộ và thể chế hóa chủ trương “thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức để các địa phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ” tại Nghị quyết số 26-NQ/TW.
Sáu là, sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức thi hoặc xét nâng ngạch công chức; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho bộ, ngành, địa phương trong công tác này, xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức phù hợp với thực tế.
Bảy là, quy định chi tiết tiêu chí phân loại đơn vị sự nghiệp công lập và việc chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công lập sang mô hình doanh nghiệp và chế độ quản lý đối với đơn vị sự nghiệp công lập theo nguyên tắc bảo đảm tinh gọn, cơ cấu hợp lý, năng lực quản trị tiên tiến.
Tám là, ban hành các quy định thể chế hóa chủ trương thực hiện chế độ hợp đồng viên chức xác định thời hạn đối với những trường hợp tuyển dụng mới (trừ các đơn vị sự nghiệp công lập ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn); đơn vị sự nghiệp công lập được đơn phương chấm dứt hợp đồng nếu viên chức không đạt yêu cầu sau thời gian tập sự.
Với các biện pháp quyết liệt, mạnh mẽ và hiệu quả đó, việc thực hiện chính sách tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức đã đạt những kết quả bước đầu rất quan trọng, góp phần nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. So với yêu cầu của Nghị quyết số 39-NQ/TW “Đến năm 2021 tinh giản tối thiểu 10% biên chế của bộ, ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương so với năm 2015” thì đến nay, chúng ta đã đạt tỷ lệ 14,93%, vượt chỉ tiêu trước hai năm.
Những vấn đề cần quan tâm thực hiện trong thời gian tới
Từ những kết quả rất quan trọng như đã nêu trên, thời gian tới, cần tập trung thực hiện có hiệu quả một số nội dung cơ bản, cốt lõi có liên quan đến tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Cụ thể là:
Tiếp tục thực hiện đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ.
Các văn bản của Đảng ta về công tác cán bộ thời gian qua đã thể hiện tinh thần, quan điểm đổi mới mạnh mẽ ở tất cả các khâu trong công tác cán bộ, song cần lựa chọn các khâu trọng tâm, trọng điểm để ưu tiên thực hiện.
Trước hết, cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp đánh giá cán bộ. Phải đánh giá cả năng lực, phẩm chất và uy tín; dựa vào kết quả, hiệu quả thực hiện từng công việc bằng những sản phẩm cụ thể, có tính định lượng. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, phải căn cứ vào kết quả, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Đối với cán bộ cấp chiến lược, việc đánh giá còn phải căn cứ vào kết quả đổi mới, sáng tạo; tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nói đi đôi với làm; khả năng thích ứng nhanh với tình hình thực tiễn, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành. Đánh giá để bổ nhiệm và bầu cử phải trực tiếp khảo sát, gặp gỡ trao đổi với các tổ chức, cá nhân có liên quan và tham khảo ý kiến phản ánh, đóng góp của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Bản thân cán bộ tự đánh giá; tập thể đánh giá; cấp trên đánh giá; cấp dưới đánh giá; huy động các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia đánh giá cán bộ.
Trong bối cảnh tiến hành đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng và chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, cần nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng và giám sát cán bộ; nhân dân phát hiện, tiến cử những người có đức, có tài cho đội ngũ cán bộ; nhân dân lựa chọn, bầu cử những người lãnh đạo trực tiếp của mình. Có chế độ quy định cán bộ tự phê bình, lắng nghe và tiếp thu những ý kiến của nhân dân, sửa chữa những khuyết điểm được nhân dân góp ý, phát hiện, phê bình trực tiếp hoặc thông qua các đoàn thể chính trị - xã hội.
Hai là, cần đổi mới việc tuyển dụng, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ. Về công tác tuyển dụng cán bộ, cần nghiên cứu thành lập Trung tâm Tuyển dụng công chức quốc gia để thống nhất việc tuyển dụng công chức cho cả hệ thống chính trị theo tiêu chuẩn, tiêu chí chung. Về công tác quy hoạch cán bộ, phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ cụ thể của mỗi cơ quan, đơn vị và thực trạng đội ngũ cán bộ hiện có theo đề án vị trí việc làm được phê duyệt. Đặc biệt, chú trọng tạo nguồn cán bộ, tập trung vào cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể chính trị - xã hội, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang, cán bộ khoa học và chuyên gia, cán bộ quản lý kinh doanh. Mỗi cấp, mỗi ngành phải có kế hoạch tạo nguồn cán bộ.
Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Nghị quyết số 26-NQ/TW đã chỉ rõ phương châm và yêu cầu là “Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt; bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng; định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng”. Theo tinh thần đó, cần xây dựng chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng đối với từng nhóm cán bộ. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ trước khi bổ nhiệm. Sắp xếp lại các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Trung ương, tập trung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các cấp. Sớm ban hành và tổ chức thực hiện Chiến lược phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài; xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW.
Về công tác luân chuyển cán bộ, cần tạo sự thống nhất cao về nhận thức, hành động của các cấp, các ngành và nhân dân về luân chuyển cán bộ, không luân chuyển để lên chức vụ cao hơn; thực hiện luân chuyển trên cơ sở quy hoạch cán bộ; giải quyết tốt mối quan hệ giữa luân chuyển, điều động và tăng cường cán bộ; thực hiện theo lộ trình từng bước chắc chắn, không thực hiện ồ ạt. Kết hợp hài hòa giữa luân chuyển với ổn định đội ngũ cán bộ; luân chuyển theo yêu cầu của công tác cán bộ; luân chuyển để đào tạo, rèn luyện phẩm chất, năng lực và bản lĩnh của cán bộ. Nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với cán bộ luân chuyển, tạo điều kiện để cán bộ luân chuyển hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nghiên cứu, đánh giá việc luân chuyển cán bộ thời gian qua; tổ chức thực hiện thống nhất việc bố trí một số chức danh lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy và chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, liên tỉnh và liên huyện không phải là người địa phương.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện chính sách cán bộ. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong sử dụng, quản lý cán bộ. Việc bố trí và sử dụng cán bộ phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn, phù hợp với phẩm chất, năng lực và sở trường. Quản lý, bố trí, sử dụng cán bộ phải công khai, minh bạch, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, thiếu khách quan khi xem xét, quyết định. Có cơ chế phát hiện, lựa chọn và giới thiệu những người đủ tiêu chuẩn và phẩm chất, năng lực và uy tín trong các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế tham gia vào đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị. Có chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần để tạo động lực làm việc, sáng tạo, cống hiến cho đội ngũ cán bộ.
Tiếp tục thực hiện chính sách tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ nhất, đối với việc thực hiện chính sách tinh giản biên chế, cần nghiên cứu hoàn thiện các quy định về nguyên tắc, căn cứ, trình tự, trách nhiệm, thẩm quyền quyết định và điều chỉnh vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức, biên chế công chức; về vị trí việc làm và số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh gọn đầu mối để bảo đảm thực hiện mục tiêu tinh giản biên chế theo quy định của Đảng và Nhà nước; kiên quyết không quy định cào bằng trong thực hiện tinh giản biên chế. Lấy kết quả thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế là căn cứ để đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm của các tổ chức và cá nhân trong hệ thống chính trị.
Thứ ba, đối với việc cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, cần sớm ban hành và tổ chức thực hiện Đề án “Xây dựng hệ thống danh mục, bản mô tả vị trí việc làm cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị”, gắn với tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện mô hình tổng thể của hệ thống chính trị phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam để sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 (ban hành theo Quyết định số 1216/QĐ-TTg, ngày 22-7-2011, của Thủ tướng Chính phủ) cho phù hợp với thực tế.
Thứ tư, đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phù hợp để thúc đẩy việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế. Kịp thời giải quyết chế độ, chính sách, làm tốt công tác tư tưởng đối với các đối tượng chịu tác động trực tiếp bởi việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức./.
LÊ VĨNH TÂN-Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ